BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG

Bên Kia Bờ Đại Dương

 

 

Chúng tôi đồng ý với nhau cho một ngày picnic nơi bãi biển, góc cuối tây nam của tiểu bang Washington giáp ranh với tiểu bang Oregon và cũng là nơi con sông lớn Columbia đổ ra biển. Bây giờ là tháng mười, chúng tôi rời thành phố rất sớm, ít nhất ba tiếng rưỡi lái xe mới đến được bờ biển, vượt qua nhiều núi, đồi, rừng lá phong vàng rực, làng mạc nhỏ rải rác và hiu quạnh trên bình nguyên mênh mông của rừng tây bắc. Nửa đường có lời yêu cầu ngừng xe cho một chuyến bách bộ xuyên qua cánh rừng lên đỉnh đồi, nếu may mắn chúng tôi sẽ kịp giờ đón mặt trời lên bên kia ngọn đồi. Chúng tôi yên lặng đi bên nhau, như trong một tranh lụa mùa thu, gió thổi mạnh và thường xuyên mang những cánh lá vàng bay vui mắt khắp nơi. Cuối cùng tới đỉnh, từ đây nhìn được toàn thể bình nguyên rộng lớn, có hai ngôi làng nhỏ với con sông uốn khúc đang ẩn mình mơ màng trong sương mờ ban sáng, vài nóc nhà thờ là trái tim của ngôi làng.

Vầng thái dương từ từ xuất hiện nơi chân trời, vạn vật bừng lên sức sống. Mặt trời lên trong sự trang nghiêm, tĩnh lặng như một thánh lễ, một ngày mới, một chu kỳ mới của luật tuần hoàn trở lại. Người bạn đứng bên cạnh tôi sáng rực rỡ và thanh thoát, có nét trẻ thơ hồn nhiên, nguồn năng lực mạnh mẽ, sự trong sáng thánh thiện và bạn như hòa tan với bình an của rừng núi. Hai chúng tôi thưởng thức cảnh đẹp một cách đơn giản yên lặng, chỉ biết có hạnh phúc tươi mát tràn đầy.

Chúng tôi tạm biệt mùa thu vàng để tiếp tục đoạn đường còn lại, sau cùng ‘đến' được bên bờ Thái Bình dương. Ngày hôm ấy rất đẹp, mặt trời ấm và mây trắng thật gần, thủy triều đang rút thật xa để lại phía sau một dãy cát trắng dài, nhìn thẳng là biển cả mênh mông, bên trái là con sông Columbia lặng lẽ hòa tan dòng nước ngọt ra biển. Nếu mùa thu có âm thanh là tiếng xao động của lá cây với gió thì biển cả có tiếng rì rào của sóng biển, một số nhà làm âm nhạc học nói là chủ âm trong thiên nhiên là cung Fa, đồng âm với âm thanh AUM… Cô bạn của tôi dùng những ngón chân trần viết chữ lên bãi cát:

– Gate, Gate, Paragate, Parasamgate Bodhi Savaha.

Đây là câu chú bằng Phạn ngữ không xa lạ với giới phật tử, có nghĩa “Nỗ lực qua bờ bên kia’. Đây cũng là đề tài ám ảnh người bạn của tôi chăng ?

Mời các bạn theo dõi ý tưởng trao đổi của hai người đang theo đuổi sự tự tri như các bạn. Thực tế hiện nay là đạo Phật đang truyền bá tại phương tây với sự bành trướng mạnh mẽ trong vòng 50 năm gần đây của cả ba chi nhánh lớn của Phật giáo. Bài viết cố ý xử dụng ngôn ngữ của phương tây để diễn tả giáo lý phương đông một cách đơn giản nhất nếu có thể được, cố tránh xử dụng kiến thức dù là kiến thức Phật giáo bằng cách đi tận nguồn. Độc giả sẽ có cơ hội phán đoán sự cố gắng của người viết trong sự 'tùy duyên' này, mong ước bạn xem đó như là một cách thức diễn tả ý tưởng mà thôi.

Vấn: (Cười bằng ánh mắt tò mò). Chắc chắn là chị có mối ưu tư. Mối quan tâm đó có liên hệ đến dòng chữ chị viết trên bãi cát ? Chia sớt đúng lúc là một tính tốt phải không ? Tôi muốn tham dự vào mối quan tâm đó và đang sẵn sàng để nghe. Tôi đã gõ, cửa sẽ mở ra chứ ?

Đáp: (mỉm cười hồn nhiên nhìn ra khơi và với một chút ranh mãnh): Anh nói đúng, chia sớt là tính tốt nhưng tò mò là tính xấu (cười to). Anh chỉ cho tôi bên kia bờ đại dương được không ? Anh có thể trả lời là bờ bên kia xa khỏi tầm của ngũ quan, lục căn, xa khỏi trí cụ thể hạn chế của loài người. Hay anh sẽ nói về chân tâm, tự tính, vô ngã, vô sinh, đốn ngộ, bất khả tư nghị, chuyện các tổ Trung Hoa / Ấn Độ, hay khéo léo nhắc nhở rằng đó là kinh nghiệm do nỗ lực bền chí thiền tập của từng cá nhân. Đề tài sẽ phải chấm dứt nơi đó với tự tu, tự chứng, nhưng có thể trình bày khác đi hay không, chia sớt nhiều hơn mà không bằng lý luận, kiến thức ? Chân lý vốn đơn giản vậy tại sao không thể trình bày hay chia sớt được sự đơn giản ?

Vấn: Đồng ý hoàn toàn với chị, đơn giản là ý kiến hay vậy ta hãy quên đi những danh từ Hán – Việt. Ba tôi giỏi hán văn bao nhiêu thì tôi lại dốt bấy nhiêu. Theo câu hỏi của chị cứu cánh hay mục đích cuối cùng là ‘đến bờ bên kia’ hay là Niết Bàn, vậy phương tiện là gì ? Theo luật đồng thanh tương ứng trong thiên nhiên, cứu cánh và phương tiện không thể khác tính chất với nhau mà phải có sự đồng dạng cùng tần số với nhau mới có được cộng hưởng. Phương tiện phải là cứu cánh, cứu cánh phải là phương tiện mà không thể dùng công thức ‘cứu cánh biện minh phương tiện’ vẫn thường dùng trên thương trường, trong chính trị.

Sáng nay chúng ta cùng nhau bách bộ, thiền hành xuyên qua rừng mùa thu, đích nhắm hay cứu cánh là đỉnh đồi, phương tiện là bộ hành. Chúng ta đáp lại lời kêu gọi của chú chim đậu và hót trên cành ‘Hãy tỉnh thức'; mỉm cười với lá vàng bay; chói sáng cùng lúc với hạt sương mai ngậm ánh nắng vàng; cộng hưởng với năng lượng của ánh sáng mặt trời. Ta đi mà chẳng mong cầu phải đến; trở thành ngọn đồi, rừng cây, con đường, thành trẻ thơ với thế giới thần tiên. Chúng ta đã ‘đến’ ngay từ lúc ‘tỉnh thức những bước chân đi', phương tiện và cứu cánh đã hòa tan vào nhau như con sông Columbia bên trái của chúng ta hòa tan vào biển cả. Tôi tin rằng chị có một số điều muốn nói về bên kia bờ đại dương, nay đúng lúc để chia sớt rồi đó (cười).

Đáp: Chúng ta đang sống trong thế giới tương đối và cụ thể của cái trí phân tích còn gọi là hạ trí so với trí trừu tượng hay trí tuệ giác (thượng trí) có đặc tính là tổng hợp. Phương tiện đúng đắn có thể đưa hành giả đến bờ bên kia là cái trí tuệ giác, chỉ vì tính chất của thượng trí và bờ bên kia đồng đẳng, tạo cộng hưởng. Xin đưa một gợi ý có tính tượng trưng hầu đơn giản hóa những chữ hạ trí, thượng trí, bờ bên này và bờ bên kia. Hạ trí có thể ví như ngọn đèn bão xử dụng trong đêm tối, cho ra ánh sáng lờ mờ và soi sáng một không gian nhỏ hẹp. Thượng trí thì như một tia chớp sáng trong đêm đen, dù chỉ trong khoảnh khắc nhưng cho ta thấy được toàn thể cảnh vật chung quanh, đủ đổi mới trọn cuộc đời của hành giả trên bước đường tự tri và thể hiện Phật tính.

Nền văn minh hiện tại là văn minh của hạ trí có tính phân tích và chia cắt: khoa học chỉ biết có khoa học, triết học chỉ biết có triết học, Thiên Chúa giáo chỉ biết có Thiên Chúa giáo, Hồi giáo chỉ biết có Hồi giáo, tuy rằng chân lý chỉ có một và ẩn tàng trong tất cả các ngành học thuật. Ta thấy ngay là không thể dùng hạ trí để tri thức bên kia bờ đại dương. Vào lúc này ta đang ở biên giới của một nền văn minh mới theo diễn tiến tự nhiên của luật tiến hóa, đó là văn minh tinh thần mà trí tuệ giác sẽ là tâm điểm. Để so sánh hai loại trí năng thì xin kể câu chuyện thật của một người bạn hơn 20 năm trước.Anh làm tài công trên chuyến tầu vượt biên, ra khơi bằng cửa Gò Công trong đêm tối. Cửa biển này rất rộng và có nhiều cồn cát rất cạn, ngư dân bắt cá bằng cách trồng những trụ gỗ thành vòng tròn và giăng lưới buộc vào trụ gọi là đóng đáy. Ban đêm tối trời, nếu tàu vượt vướng vào lưới thì coi như tương lai đen tối của tù tội và đến bờ bên kia sẽ chỉ là mơ ước ! Lúc ấy biển động và mưa to, trời tối đen, người bạn tài công chỉ còn dựa vào những tia chớp, đủ để thấy toàn cảnh vật và len lỏi con tàu tránh né lưới cá giăng ngang dọc. Con tàu đã đến bến bờ tự do an toàn nhờ vào thấy cái ‘toàn thể’, một công việc mà ngọn đèn bão không thể làm.

Vấn: Như vậy chị sẽ trình bày đề tài bằng dạng tổng quát cho cái nhìn toàn diện về bờ bên kia ? Mà muốn sang bờ bên kia chúng ta sẽ cần một vị thầy, vậy mối liên hệ thầy trò sẽ phải ra sao ?

Đáp: Anh đoán đúng lắm, tôi bắt buộc phải xử dụng một số giáo lý căn bản. Có ba nguyên lý chính của đông phương:

1– Vũ trụ được bắt nguồn từ một nguyên lý vĩnh cửu, vô biên, không biến đổi, luôn luôn bí ẩn gọi là Cái Tuyệt Đối Parabrahman hay là thực tại cơ bản, tự tính không. Nguyên lý này vượt lên trên sự hiểu biết của nhân loại.

2– Tinh thần và vật chất (nhị nguyên) không phải là hai thực tại riêng rẽ mà là cục diện của cái Tuyệt Đối bên trên. Chúng là hai sản phẩm của việc phân thân và là nền tảng của sự biểu hiện nơi thế giới tương đối.

3– Từ hai nguyên lý trên sinh ra vô số vũ trụ và thiên hà, xuất hiện và tan biến theo chu kỳ vô tận của Sristi và Pralaya và theo luật tuần hoàn: sáng tạo, bảo tồn, hủy diệt. Trên hành trình đi đến nguyên lý thứ nhất hay bờ bên kia hay tự tính không, chúng ta bắt buộc phải đi xuyên qua nguyên lý thứ ba là luật tuần hoàn và nguyên lý thứ hai là nhị nguyên. Tất nhiên có nhiều con đường, vị thầy đã đắc pháp có thể biết được căn duyên của đệ tử, ngày giờ của đóa hoa sắp nở và bằng nhiều cách ngài gợi ý tạo ra giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước.

Chúng ta cũng không nên cố chấp vào tiệm ngộ hay đốn ngộ, tha lực hay tự lực như câu nói:

– Thiền tông nhắm vào đốn ngộ và tự lực, tịnh độ tông và mật tông nhờ vào tha lực và tiệm ngộ.

Luôn luôn có sự ngang nhau, đồng tính chất với nhau mới có được cộng hưởng, học trò đủ sức nâng tâm thức lên cao đủ để có sự cộng hưởng với tâm thức của vị thầy, vậy thì tha lực cũng là tự lực, tại sao phải chấp và có thành kiến ? Có đốn ngộ nào không cần tiệm ngộ, hoặc trong kiếp này hoặc trong vô số kiếp trước ? Ta sẽ rất dễ bị thành kiến và chết trong những từ ngữ bởi chân lý tuyệt đối hay là phần vô vi không thể diễn tả đầy đủ bằng lời. Ngôn ngữ là phương tiện còn chân lý tuyệt đối  là cứu cánh không cùng tính chất với nhau, giống như toán học không diễn tả nổi vô cực mà chỉ dùng ký hiệu là số 8 nằm ngang. Thế nên có kinh sách dùng ẩn ngữ như biểu tượng hay ngụ ngôn nhiều ý nghĩa. Chúng ta cũng nghe nói đến loại kinh vô tự viết  bằng nét lửa, loại chữ kén chọn độc giả và rất ít người có khả năng đọc được. Họ chỉ đọc được bằng  cặp mắt tinh thần, đọc xong là chữ biến mất. Tất cả những điều trên liên hệ mật thiết đến việc nâng cao mức tri thức lên thượng trí, môt khi chúng ta biết ‘nghe' và biết ‘đọc’.Vị thầy bên ngoài và bên trong luôn tương xứng đồng nhip.

Vấn: Chị đã trình bày phải vượt qua hai biển lớn là nguyên lý hai và ba mới đến được bờ bên kia. Chị thêm chi tiết được không như phải học bơi cho thật giỏi ? (cười).

Đáp: Bơi với nghĩa bóng. Chúng ta đã đi bộ khá xa và cũng đang đến bờ bên này của sông Columbia. Sông to quá, bờ bên kia chỉ thấy lờ mờ. Sông đã vậy, biển còn to hơn nữa, chỉ thấy những đợt sóng liên tục đổ vào bờ.Nhìn sóng tôi thấy có luật tuần hoàn sóng biển được sinh ra tồn tại một khoảng thời gian rồi tự hủy diệt và cứ như vậy liên tục ngàn năm.Văn hóa đông và tây gặp nhau ở nguyên lý thứ ba bên trên, từ Ai Cập đến Hy Lạp đến Thiên Chúa giáo, Ấn giáo. Danh từ có khác nhau nhưng ý nghĩa thì giống nhau: sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt, ba giai đoạn này chi phối từ vũ trụ cho đến một hạt nguyên tử, một nền văn minh cho đến sự biến chuyển của tư tưởng trong diễn giảng của Phật giáo. Đó là  sanh (uppada), trụ (thiti) và diệt (bhanga), và nếu sự biến chuyển này đúng cho thế giới tư tưởng bên trong thì hẳn cũng đúng cho thế giới bên ngoài ?

Nguyên lý thứ ba có sự vô thường với ảo ảnh và đau khổ  là đặc tính tiềm tàng bên trong. Khi chưa hiểu biết thì có sự chia ly, hủy diệt, mất mát nào mà không gây đau khổ ? Giây phút chúng ta thức tỉnh về sự vô thường, ảo ảnh của một kiếp sống, tự nhiên tất cả quan niệm có vẻ vững chắc trước đây về cái tôi, ‘của tôi' sụp đổ, tan biến trong nỗi tuyệt vọng vô bờ !

Tiếng nói nội tâm vang lên nhắc nhở thay đổi cách sống một cách nghiêm chỉnh, tạo đời sống mới, có quyết định mới theo đuổi sự tự tri và những giá trị thật và vĩnh cửu. Muốn qua sông, muốn vượt đại dương phải vượt qua vô thường và ảo ảnh, đúng bên trên luật tuần hoàn, vượt qua đêm đen của đau khổ, tự chứng tỏ có thể đứng vững trên hai chân, tiếp tục con đường.Khi ấy người ta có khả năng nhìn mặt trời trong sự thật hằng có của nó, không lặn không mọc trong hiện tượng ảo hóa của luật tuần hoàn.Khi có tỉnh thức hành giả sẽ tự khám phá ra cách đi riêng không ai giống ai.

Vấn: Xin phép được góp ý thêm về nguyên lý thứ ba. Bên cạnh luật tuần hoàn ảnh hưởng tất cả sự sống tôi thấy có bản chất tam diện của đời sống, luôn đi song đôi với luật tuần hoàn.Ấn giáo ghi là Tĩnh (tamas), Động (rajas) và Nhịp (sattwa). Chúng ta có thể tìm thấy bờ bên kia xuyên qua ba bản chất này trong văn hóa đông lẫn tây. Thí dụ câu chuyện về một học tăng, ban đầu là chú sải nhỏ thấy sông là sông, núi là núi tức trạng thái tĩnh; tâm thức biến chuyển sang trạng thái động và chú cho rằng sông không phải là sông, núi không phải là núi rồi sau cùng, khi thành vị tăng chín chắn hiểu được cái toàn thể  tức trạng thái nhịp, có tuệ giác tức đến được bờ bên kia thì vị tăng nhận xét sông là sông, núi là núi. Giai đoạn một và ba khác nhau, khởi đầu thì tiêu cực, thụ động và không có thử thách nhưng lúc cuối thì tích cực, chủ động  và vượt qua thử thách . Bài thơ về ba giai đoạn này dịch nôm như sau:

Khói tỏa Lô Sơn, sóng Chiết Giang
Khi chưa qua đó, luống mơ màng,
Qua rồi bỗng thấy không gì khác,
Khói tỏa Lô Sơn, sóng Chiết Giang.
(Có bản dịch ghi là Lư Sơn).

Chúng ta cũng thấy nội dung đó trong nhận định của Nietzsche khi nói là con người có ba giai đoạn: con lạc đà, con sư tử và trẻ thơ hồn nhiên. Triết gia ảnh hưởng mạnh phong trào hippy hồi thập niên 60 khi mà giới trẻ bế tắc, phủ nhận giá trị xã hội qui định,  đi tìm một cái gì chân thật và vĩnh cửu. Nội dung này còn phản ảnh trong quyển  “Câu Chuyện của Dòng Sông' của Hermannn Hess. Tất Đạt là người đã trải cả ba giai đoạn: hiền lành chấp nhận như con lạc đà, chống đối tức trạng thái động của con sư tử. Ông tranh cãi và phủ nhận giáo lý của đức Phật. Tất Đạt chọn sống cuộc đời của vị thương gia với cô kỹ nữ và cuối cùng là giai đoạn đến được bờ bên kia, đạo đức hồn nhiên của một trẻ thơ  và minh triết của một ông già, tự do, an nhiên tự tại vượt khỏi mọi ràng buộc và cảm thông dễ dàng  với nhân sinh đang chìm đắm đau khổ trong hai giai đoạn đầu. Ngược lại Thiên Hữu chỉ có một giai đoạn mà thôi, giai đoạn con lạc đà, nhưng xin chị trình bày tiếp về cái biển thứ hai hay nguyên lý thứ hai : nhị nguyên.

Đáp: Như vậy ‘đi' là tiệm tiến, đi từ A đến B tiêu thụ một số lượng thời gian, tức là có yếu tố không gian / thời gian trong đó, có tranh chấp chọn lựa, so sánh hơn thua sai đúng... Khi đề cập đến nhị nguyên ta không không thể quên đề cập tới Trung Quán Luận do ngài Long Thọ (Nagarjuna, được xem là tiền thân đức KH) đưa ra vào thế kỷ thứ hai, như là một phương tiện đưa chúng ta đến bờ bên kia. Trung Quán Luận cho biết chân lý không ở hai cực đoan, chỉ có thể kinh nghiệm điều này bằng trí tuệ giác, đưa tới việc phát triển lòng bi mẫn cao độ, không còn thành kiến hẹp hòi.

Vấn: Ba La Mật Đa Tâm Kinh có đề cập đến không có chứng đắc, và cũng có chủ trương: không đi, mà cũng có chủ trương: không đi cũng chẳng có đến. Như vậy là sao ?

Đáp: Có lời khuyên:
– Đừng sống trong quá khứ là cái đã chết, cũng đừng sống trong tương lai là cái mù mờ chưa xẩy ra.Hãy sống trong hiện tại vĩnh cửu.

Đức Phật là người không đi, không đến, ngài lúc nào cũng tỉnh thức trong hiện tại vĩnh cửu (dừng). Chuyện kể rằng có lần đức Phật phải đi một đoạn đường không an ninh, ngài được khuyên nên chọn đường khác để tránh một tướng cướp nổi tiếng giết người hung bạo là Angulimala. Ngài từ chối mà an nhiên kinh hành, tướng cướp Angulimala vác gươm đuổi theo. Lạ quá, ngài đi rất từ tốn nhưng tên cướp lực lưỡng rượt mãi mà không bắt kịp. Cuối cùng Angulimala bỏ cuộc, đứng lại chống gươm thở hào hển  và la to:

– Này ông thầy tu kia, hãy dừng lại.

Đức Phật thong thả trả lời:

– Ta dừng lại đã lâu lắm rồi, sao nhà ngươi chưa chịu ‘dừng' ?

Oai lực của ngài hợp với thiện căn của Angulimala vào đúng lúc luật nhân quả cho phép tạo ra giọt nước làm tràn ly nước, và cũng đúng ngày giờ đó hoa chân tâm mở. Angulimala bừng tỉnh cơn mê, vất gươm quỳ xuống đảnh lễ…

Nếu anh hỏi thêm:

– Như vậy trạng thái dừng có phải là trạng thái cao nhất ?thì không phải, trong hành trình khám phá chân ngã hành giả tìm thấy những nét huy hoàng càng lúc càng tuyệt diệu hơn, không hề tới mức có thể nói là cao nhất, sâu xa nhất không thể cao và xa hơn nữa. Vì vậy nguyên lý thứ nhất vẫn nói là vượt lên trên sự hiểu biết của nhân loại. Biểu tượng nó là vòng tròn, chu vi nó không có khởi đầu và chấm dứt và bán kính thì vô cực.

Riêng về trạng thái 'đến' tôi có tham khảo một huynh trưởng và anh phát biểu:

– ‘Đến' là một dấu hiệu bắt đầu, khi bạn ứng dụng thuyết trung quán luận vào đời sống, khi mà trực giác cho thấy trọn vẹn con đường, và chỉ là bắt đầu mà thôi trong hành trình dài đến nguyên lý thứ nhất, và chẳng có gì phải tự hào. Các bạn có trọn quyền tự do kiểm chứng bằng kinh nghiệm của các bạn. Với trường hợp dừng hay hiện tại vĩnh cửu, vàng ròng không thể trở lại thành quặng mỏ, ngược lại trường hợp ‘đến’ không như vậy, hành giả vẫn bị vấp ngã và chưa hoàn thiện, con đường vẫn còn dài…

Vấn” Có phải là hiện trạng chỉ xảy ra cho những người theo đuổi sự tri ? Và câu chú chị viết trên bãi biển hình như gắn liền với bài kinh Ba La Mật Tâm Kinh, và Lục Độ hay là sáu Paramitas. Tại sao có sự gắn liền đó ?

Đáp: ‘Đến' không có kỳ thị hạng người nào cả. Giới nghệ sĩ, khoa học gia vẫn thường xuyên có được trực giác và hứng khởi tinh thần từ những cõi cao. Kinh sách xưa vẫn nói:

– Người nghệ sĩ chân chính vì lòng trong sạch yêu nghệ thuật mà làm việc, nhiều khi đi đúng đường hơn là tu sĩ tưởng mình siêu thoát đã rời bỏ bản ngã, nhưng thực ra chỉ mở rộng biên giới của kinh nghiệm và dục vọng tế nhị.

Khi nghe lại hòa tấu của các đại nhạc sĩ có cảm hứng từ thiên nhiên như Felix Mendelssohn, Antonio Vivaldi, Bach, Beethoven… chúng ta có thể cảm được sự rung động  tinh tế thanh cao và cộng hưởng với nguồn hứng khởi của tác giả. Nếu những tôn giáo, thiền gia đi bằng con đường chân lý và bác ái, thì người nghệ sĩ đi tìm sự hội nhập với chân ngã xuyên qua con đường mỹ lệ. Tất cả các con đường đều tới đích. ‘Đến’ là giọt nước cuối cùng của đi, khi ‘đi' chấm dứt là ‘đến' xuất hiện nếu không bỏ cuộc nửa chừng. Kinh Phật có nói:

– Một khúc gỗ nếu không vướng vào ghềnh đá, nếu không mục nát từ bên trong thì một ngày nào đó cũng trôi ra được tới biển cả.

Ta nên ngừng ở đây, bài đã dài rồi.

Vấn: Xin phép chị cho tôi tóm tắt đề tài hôm nay. Có nhiều con đường dẫn tới bờ bên kia. Đừng câu nệ tự lực hay tha lực, đốn ngộ hay tiệm ngộ. Kinh nghiệm đến bờ bên kia nên được xem như kết quả tự nhiên xẩy ra khi mà giới và định lực đầy đủ hay động lực nội tâm đủ mạnh. Giống như khi chúng ta chuẩn bị đầy đủ chai lọ, ống nghiệm, tia lửa điện, xong thu thập hai phần hydro và một phần oxy, đúng thời điểm đó tạo một tia lửa điện thì nước sẽ xuất hiện. Sự sắp xếp chai lọ, ống nghiệm .v..v.. có giá trị như một nghi lễ đọc kinh của phái tịnh độ.

Lời đề nghị ở đây là hãy tự biết mình, ưu và khuyết điểm và xử dụng ưu điểm. Thí dụ bạn nhạy cảm và yêu thích thiên nhiên, yêu nghệ thuật, sự mỹ lệ thì hãy đến với thiên nhiên mỗi ngày, đặt ra một công án trong tâm trí. Chúng ta bắt đầu bằng nghi vấn, câu hỏi, lòng yêu thích chân lý sẽ tạo ra một đinh lực, định lực này sẽ lôi kéo ta vào đề tài trong giờ thiền định và kéo dài ngoài giờ thiền định, mỗi khi ta có giờ rảnh như làm vệ sinh, lái xe đi làm và đấy là một phản ứng tự nhiên.

Lời giải đáp hay điểm ‘đến' sẽ xảy ra bất ngờ, khi ấy mọi nghi vấn chấm dứt, sự tự tin trở nên sống động, niềm an lực ngự trị, kinh nghiệm được mở rộng  toàn vẹn, mọi giới hạn không còn nữa. Có câu nói:

– Toán học định nghĩa cái chấm là một vòng tròn không có bán kính, và vòng tròn là cái chấm có bán kính bằng vô cực.

Ta thấy ngay cái chấm có cùng bản chất với vòng tròn, cùng nằm trong luật đồng thanh tương ứng, sự vô hình không bán kính của cái chấm và sự bạo la vô cực của bán kính vòng tròn đều vượt ra ngoài cái trí cụ thể của chúng ta. 'Đến' là trạng thái cái chấm trở thành vòng tròn, con người kinh nghiệm được không biên giới, vượt lên trên những cố chấp của giới hạn, cả ba trạng thái không thể phân chia cùng xuất hiện là Minh Triết, Bác Ái, và Ý Chí kèm theo niềm an tịnh vô biên. Phật giáo gọi là Bi, Trí, Dũng. Kinh nghiệm bờ bên kia là một kinh nghiệm thực tại, ở nơi đây, phút này khi mà tâm thức bừng sáng, bừng nở như cánh hoa sen đúng ngày giờ dưới ánh nắng mặt trời. Những ai có kinh nghiệm nếm được niềm an lạc này đều ao ước tất cả nhân loại  cũng có được vậy, tuy nhiên mỗi người phải tự đạt lấy cho mình.

Hai người bạn có với nhau những nụ cười hồn nhiên và niềm hạnh phúc an lạc.

 

M.T.L.